TRÁNH NHẦM LẪN GIỮA "TIỀN ĐẶT CỌC" VÀ "KHOẢN TIỀN TRẢ TRƯỚC"?

0909 642 658 - 0939 858 898
TRÁNH NHẦM LẪN GIỮA "TIỀN ĐẶT CỌC" VÀ "KHOẢN TIỀN TRẢ TRƯỚC"?

             Phần lớn trong các giao dịch dân sự khi một bên giao cho bên kia một khoản tiền sẽ ghi rõ ràng là tiền đặt cọc hay tiền trả trước cho một phần nghĩa vụ của mình. Nhưng vẫn còn những trường hợp khi giao tiền không nói rõ là khoản tiền này được đưa cho bên kia với mục đích gì, sau đó phát sinh tranh chấp và bất đồng với nhau về bản chất của khoản tiền này. Thông thường bên đưa tiền sẽ cho rằng đây là khoản tiền đặt cọc, còn bên nhận tiền lại cho rằng đây là khoản tiền trả trước. Việc xác định bản chất của quan hệ nêu trên là rất quan trọng bởi hệ quả pháp lý của hai hình thức này là khác nhau, là phạt cọc hay xử lý tiền trả trước. 

    Hiện nay pháp luật không quy định về khoản tiền trả trước, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng có thể hiểu đơn giản “tiền trả trước là khoản tiền mà bên có nghĩa vụ trả tiền đưa trước một khoản tiền cho bên có quyền, là thực hiện trước một phần nghĩa vụ, cụ thể là chuyển giao trước một khoản tiền”.

    Việc xác định bản chất khoản tiền là tiền đặt cọc hay tiền trả trước kéo theo hệ quả pháp lý khác nhau. Chẳng hạn, nếu bên nhận tiền không thực hiện đúng hợp đồng và đây chỉ là tiền trả trước thì bên nhận tiền phải hoàn trả tiền đã nhận (và không chịu phạt cọc từ việc nhận khoản tiền này). Ngược lại, trong trường hợp đây là tiền đặt cọc, Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy vấn đề phạt cọc chỉ được đặt ra khi xem số tiền mà một bên đưa cho bên kia là tiền đặt cọc.

    Ví dụ thực tiễn: Công ty S (nguyên đơn) ký hợp đồng dịch vụ với Công ty N (bị đơn). Thực tế, nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn một khoản tiền (bằng 50% giá trị hợp đồng dịch vụ). Sau đó các bên có tranh chấp và bất đồng với nhau về bản chất của khoản tiền này. Hội đồng Trọng tài xác định khoản tiền giao nhận “được coi là tiền trả trước và không phải là tiền cọc”. Việc xác định bản chất quan hệ nêu trên kéo theo hệ quả pháp lý khác nhau.

    Trong vụ việc trên, hợp đồng có đoạn “Trường hợp dự án không thể thực hiện đúng vào ngày 31/12/2014 (…), bên A sẽ không thanh toán bất kỳ chi phí dịch vụ nào trong điều khoản thanh toán cho bên B và bên B phải hoàn trả lại 50% giá trị hợp đồng tiền đặt cọc mà bên A đã thanh toán cho bên B sau khi ký hợp đồng”. Ở đoạn này, các bên dùng từ “tiền đặt cọc” và nguyên đơn theo hướng đây là tiền đặt cọc còn bị đơn theo hướng đây không là tiền đặt cọc. Hội đồng Trọng tài xác định “về bản chất, việc nguyên đơn chuyển cho bị đơn tiền không phải là nhằm bảo đảm giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự” và “các bên không đặt ra cơ chế xử lý tiền đặt cọc, bồi hoàn gấp đôi tiền cọc theo khoản 2 Điều 358 của Bộ luật Dân sự năm 2005 mà chỉ đề ra thu hồi lại số tiền thanh toán trước do bị đơn chưa thực hiện đúng nội dung hợp đồng”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định số tiền trên “được coi là tiền trả trước mà không phải là tiền đặt cọc”.

    Từ ví dụ trên cho thấy việc không thỏa thuận rõ ràng mục đích khoản tiền một bên chuyển giao cho bên kia sẽ làm phát sinh những tranh chấp không đáng có. Do đó, khi thực hiện các giao dịch dân sự các bên cần thỏa thuận rõ bằng một điều khoản trong hợp đồng về khoản tiền đặt cọc hay khoản tiền trả trước để tránh những tranh chấp không đáng có, ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác giữa hai bên.



    Tư Vấn Pháp luật TƯƠNG TỰ
    ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 SO VỚI BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM  2005 VỀ VAI TRÒ CỦA IM LẶNG TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG?
    Theo Khoản 2 Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự thì: “2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.”
    VÌ SAO THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN LÀ CĂN CỨ PHÁT SINH NGHĨA VỤ  DÂN SỰ?
    Nghĩa vụ dân sự phát sinh khi có sự kiện pháp lý mà pháp luật dự liệu xảy ra dẫn tới một hậu quả pháp lý nhất định.
    THẾ NÀO LÀ QUAN HỆ DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI?
    Theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định căn cứ để xác định “yếu tố nước ngoài” trong các quan hệ dân sự là:
    CÓ PHẢI TẤT CẢ CÁC QUAN HỆ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ĐỀU THUỘC ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU  CHỈNH CỦA TƯ PHÁP QUỐC TẾ?
    Không phải các quan hệ có yếu tố nước ngoài đều thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế mà chỉ có các quan hệ mang bản chất dân sự có yếu tố nước ngoài mới thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế, cụ thể gồm:
    THẾ NÀO LÀ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN?
    Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người tự ý, tự nguyện thực hiện công việc của người khác, vì lợi ích của người khác mà không dựa trên cơ sở hợp đồng thực hiện công việc đó hoặc do pháp luật quy định.
    ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ
    Hiện nay theo quy định của BLDS 2015 có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu; Bảo lãnh; Tín chấp; Cầm giữ tài sản.

    © 2021 Văn phòng giao dịch Công ty Luật TNHH CNC Việt Nam. Designed by it-group.vn

    Online: 23 | Hôm nay: 1 | Tổng: 386450
    Hotline: 0909 642 658
    _chiduong Zalo Zalo: 0909 642 658 Chat messenger